THƠ LỤC BÁT BÙI ĐĂNG
SINH
(Nhà
xuất bản Hội Nhà văn – 2011)
Mai
Thanh
Thơ lục bát thường
được cảm nhận khác nhau. Có người đơn giản coi đó chỉ là dạng thơ ghép vần 6-8,
sao cho chữ cuối cùng của câu sáu có nguyên âm vần với chữ thứ sáu của câu tám sau đó; và chữ cuối của
câu tám ấy có nguyên âm vần với chữ cuối cùng của câu sáu sau đó, thí dụ:
Anh
em đồng chí chúng ta
Cùng
nhau đoàn kết để mà tiến lên
Tiến
lên, ta quyết tiến lên
.......
Không đến nỗi như
thế, có người cũng đã quan tâm đến nội dung, câu chữ của thơ lục bát, song nhiều
lắm cũng chỉ là lục bát diễn nôm ý tưởng của tác giả bằng những ngôn từ chưa phải
là thơ mà thôi, thí dụ:
Hôm nay trời đẹp trăng thanh
Sân đình hợp tác có anh với nàng
Cùng nhau ta gánh thóc vàng
......
Những người nhận
thức đúng về thơ lục bát và những người làm thơ lục bản thực sự là những người
cùng với vần điệu, coi ý tưởng (thi tứ) và ngôn từ (thi từ-thi ngữ) là cứu cánh
của bài thơ. Song, ý tưởng và ngôn từ thì cũng là cứu cánh cho mọi dạng thơ,
nên thơ lục bát phải chứa ý tưởng cảm xúc, ngôn từ thể hiện ấy vào cái khuôn khổ
vần điệu lục bát, để thơ lục bát thực sự là thơ lục bát.
Nói những điều
trên đây để nói rằng: Thơ lục bát Bùi Đăng Sinh thực sự là thơ lục bát và thơ
anh đã chứa đựng ý tưởng, ngôn từ trong cái khuôn khổ vần điệu lục bát ra sao ở
tập thơ mà chúng ta đang đề cập.
Về ý tưởng, trước hết, đó là tình yêu –
không phải là tình yêu tròn trịa, viên mãn như mọi tình yêu, mà là tình yêu
hoài niệm đầy day dứt. Vào lễ chùa, nhà thơ nghĩ tới “cái ngày em đến cùng
tôi/Vào chùa đặt lễ xin lời Phật khuyên/Kiếp này trót lỡ nhân duyên/Em đừng vội
bước sang thuyền lái buôn” (Lễ chùa, tr.37). Nhà thơ tự nói trong thơ mình khi
hoài niệm về tình yêu một thuở: “Lời anh tự nói với em/Có thành cơn gió qua miền
tâm tư” (Tự nói, tr. 44). Bạn đọc thường
gặp các thi từ nhớ nhung, chiêm bao, chờ đợi... khi nhà thơ nói về tình yêu, bởi
tình yêu hoài niệm là vậy!
Hoài niệm tình yêu
trong trạng thái vừa giận hờn vừa trách
móc:
Hẹn thề chót lưỡi đầu môi
Trả cho người ấy tình tôi âm thầm
Sao rơi vỡ mộng đêm nằm
Đam mê dối trá bao năm đủ rồi
Xoay vần tạo hóa trêu ngươi
Kiếp sau nguyện tránh xa người hôm nay?
Con tim bầm dập tháng ngày
Nụ cười chợt méo – đắng cay – ngọt ngào...
(Thiên đường
hư vô, tr.113)
Thì quả thật là đã đi đến tận cùng của tình yêu day dứt! Có
thể nói, “Thiên đường hư vô” là bài thơ khái quát cơ bản về tình yêu hoài niệm
về một thời long lanh, về nỗi buồn dứt day hiện tại và cả niềm hy vọng hư vô về
tình yêu đã mất.
Hoài niệm về nơi
chốn, mà tôi tạm gọi là “hoài niệm không gian”. Xưa nay, “hoài niệm không gian”
đã có nhiều trong thi ca: Những hoài niệm về làng quê với cây đa giếng nước,
mái đình, dòng sông... Bà Huyện Thanh Quan từ không gian thành Thăng Long mà
hoài niệm về một thời hoàng kim và cũng với hoài niệm ấy khi ngắm nhìn Đèo
Ngang vào buổi chiều tà để rồi thốt lên: “Dừng chân dứng lại trời, non, nước/Một
mảnh tình riêng ta với ta”.
Với Bùi Đăng Sinh,
hoài niệm không gian - miền quê Vĩnh
Phúc - tràn đầy trong thơ anh. Trước hết và đậm nét nhất là cái mảnh đất Thổ
Tang - vùng quê có nhiều gắn bó với nhà thơ -
được đề cập nhiều lần trong thơ anh. Đó là một Thổ Tang còn được gọi là
làng Giang, làng Dâu – nơi có đền thờ Thành hoàng Đức Ông, một vị tướng có công
đánh giặc Nguyên – Mông thời nhà Trần; vốn xưa là đất dâu tằm, nay dẫu nghề tằm
tơ không còn nữa, nhưng cái chất đậm đà canh cửi vẫn chứa đựng trong con người
vùng này: “Nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh/Sống muôn nơi vẫn nghĩa tình Thổ Tang”
(Làng Giang, tr.85). Đó là một Thổ Tang hoài niệm không gian gắn quyện với hoài
niệm tình yêu một thuở. Ở đó, “Cái ngày gặp gỡ đầu tiên/Thổ Tang đã hóa thành
miền thương yêu/Đao đình cong xanh sắc rêu/Khói hương nói hộ bao điều tâm
linh/Có ai cân được chữ tình/Biết rằng từ đó chúng mình thương nhau/Cần gì nói
mấy ngàn câu/Từ trong vất vả vàng thau rõ rồi/Nhắc làm chi chuyện xa xôi/Anh và
em đã nên người Thổ Tang” (Đất quê, tr.107). Đó là một Thổ Tang đậm đà văn hóa
với “Trống chèo khi nhỏ khi to/Lời ca điệu múa giọng hò nao nao” (Đêm chèo làng
Giang, tr. 9). Hoài niệm không gian còn là Đền Hùng mà nhà thơ mượn nỗi niềm
người con dâu Đất Tổ để bộc lộ cảm xúc của mình: “Nén nhang con thắp ngoài thềm/Gió
qua cháy một nỗi niềm tổ tông (Nỗi niềm, tr. 20); là Thuận Thành, chùa Dâu,
chùa Tháp Bút, chợ Sủi, chợ Hồ, Luy Lâu, Hội Lim, núi Dạm, chùa Hương, Chùa
Thông, Đại Lải...Nói chung là những không gian lịch sử-văn hóa đậm chất Phật
thiền và tĩnh lặng.
Mạch cảm xúc triết
luận tuy không đậm nét, nhưng rất đáng kể trong “Thơ lục bát Bùi Đăng Sinh”.
Thơ triết luận cũng ba bảy đường: Có triết luận thuần túy triết học; có triết
luận chính trị-xã hội... Triết luận trong thơ Bùi Đăng Sinh thuộc triết lý nhân
sinh. Khái niệm “Tôi đi tìm tôi” là cách nói của quá trình tự nhận thức. Con
người không thể nhận thức được bản thân mình ngay một lúc, mà phải qua một quá
trình, vì thế mà “tôi đi tìm tôi”. Diễn đạt ý tưởng ấy gắn với tình yêu “tìm
em” làm cho bài thơ sinh động vừa mang tính triết lý, vừa đậm chất trữ tình
(Tôi đi tìm tôi, tr.25). Hình ảnh cây tài lộc, còn gọi là cây sống đời, là chân
dung của một tâm hồn cao đẹp đưa thành một triết lý sống: Không đòi hỏi đời phải
ban tặng cho mình, trong khi mình vì đời mà vô tư cống hiến. Thiết nghĩ, triết
lý này rất có ý nghĩa thời sự hiện nay, khi mà chủ nghĩa cá nhân đang hoành
hành trong xã hội.
Thật là chí lý khi
nhà thơ nêu ý tưởng triết lý về sự chắt chiu, vun vén cho những gì vốn là của
ta và cũng là lời răn đe cho thói săn tìm những gì xa xôi, vô vọng:
Cái gì chưa có đành thôi
Cứ yêu cái có, yêu rồi sẽ say
Biết đâu qua khúc sông này
Hết đêm thăm thẳm, sang ngày mai lên
(Gặp
sông, tr.115)
Như vậy, cũng là
hoài niệm về tình yêu, hoài niệm không gian và về triết luận thi ca, nhưng thơ
Bùi Đăng Sinh có nét riêng, độc đáo không giống ai.
Về ngôn từ, ngoài những phương pháp tu từ
mà nhiều nhà thơ thường dùng,chẳng hạn, “Biển còn đội sóng ngàn sau/Sao riêng
em vội nhạt màu thời gian” (Cô đơn, tr. 45), “Em ẩm ướt với nỗi buồn/Tôi run rẩy
giữa khu vườn khát khao” (Cõi tình, tr. 88)..., “Thơ lục bát Bùi Đăng Sinh” tạo
dựng hình tượng thơ thật sự phong phú, độc đáo: Ngoài phần lớn thuộc dạng thơ tự
cảm, còn những dạng thơ khác, như cảm kể (Đường Tuần Giáo Lai Châu, tr.11; Sự
tích hạt giống, tr.22), như giao cảm - tức là cảm xúc giao lưu với người khác,
với cả con vật, cỏ cây – người chăn bò thủ thỉ với con bò của mình: “ Đi nào bò
ơi...” (Tiếng hát người chăn bò, tr.40)...
Thơ lục bát Bùi
Đăng Sinh thấm đượm chất dân ca, nói chung là chất văn hóa đồng bằng Bắc Bộ
trong phảng phất câu chữ ở nhiều bài thơ, như “dải yếm bắc cầu”, “gió đưa cây cải
về trời” (Không đề, tr.24), “trèo lên Quán Dốc”, “đỉnh trời Thiên Thai”, “mặc yếm
đi hài”, “người ơi, người ở, cùng về”, “thương cây trúc mọc đầu thôn” (Quan Họ
quê người, tr. 27)...
Hoặc:
Táo đâu rụng ở sân đình
Say nhau đổ vỡ cả bình rượu ngon
Chỉ là mảnh chiếu con con
Mà thu trời đất vuông tròn vào trong
(Nhìn lại, tr. 31)
Thêm nữa:
Bao nhiêu thân phận nổi chìm
Mười hai bến nước, chín nghìn nhân duyên
Ngày nào cùng tựa mạn thuyền
Người đi để lại lời nguyền cho ai
(Cái duyên, tr.52)
Một hình thức ngôn
từ thể hiện trong thơ Bùi Đăng Sinh là cấu tạo trong nội bộ câu thơ, bài thơ.
Đó là lối điệp âm, điệp từ và lối tiểu đối trong câu. Có rất nhiều bài thơ
trong tập như vậy, trong đó, “Lục bát mùa xuân” (tr. 66) là bài thơ tập trung
các lối thơ nói trên: “Mắt nhìn lóng lánh, long lanh (điệp âm), “Ngày ngày,
tháng tháng, năm năm đợi chờ”, (điệp từ); và “Dẫu rằng còn chút tình riêng/Người
ơi gõ trống, khua chiêng làm gì/Mùa xuân về, tuổi xuân đi/Lá xanh-tóc trắng từ
khi nào rồi/Ta còn rạo rực bồi bồi/là nhờ hương đất, hương trời chuyển giao”(tiểu
đối).
Mỗi biện pháp ngôn
từ đều có ý nghĩa và vai trò thi pháp riêng, song chúng đều nhằm nâng cao hiệu quả
nghệ thuật của thi ca.
*
* *
Trong nền thơ lục bát, chúng ta biết được có
nhiều nhà thơ nổi danh, chẳng hạn, xưa là Tản Đà, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,
...; gần đây là Quang Huy, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn... Trong khi thơ hiện đại với
lối thơ tự do đang mở ra ào ạt, thì thơ lục bát vẫn đứng vững và phát triển với
nhiều nhà thơ đã và đang xuất hiện. Bùi Đăng Sinh là một nhà thơ như vậy.
Cảm ơn và chúc mừng
nhà thơ Bùi Đăng sinh về tập “Thơ lục bát Bùi Đăng Sinh”. Bạn đọc đón chờ sẽ được
đọc nhiều tập thơ tiếp theo, trong đó có thơ lục bát hay hơn nữa của anh!
Hà Nội, tháng 11-2011
M.T
Nguồn: Tạp chí xuất bản Việt Nam số 11/2011_trang 20,21
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét